Kính thưa Cha, trong các bài chia sẻ Tin Mừng con
thấy có ba từ" thánh giá" "khổ giá" và "thập giá",
xin Cha cho con biết: -khái niệm 3 từ trên, 3 từ đó có mối liên hệ gì, khi nào
thì ta dùng một trong 3 từ trên?
Cha Stêphanô Huỳnh Trụ trả lời,
Thứ
nhất ta hiểu từng chữ:
- Thập Tiếng hán chữ十 (thập), nghĩa là dt. (1) Tên số một cộng chín: thập
nhân (mười người); tt. (2) Số nhiều: thập mục sở thị (ai ai cũng
thấy); pht. (3) Rất; hết mức: thập phân, thập nhị phân (ngoại
hạng); (4) Hoàn toàn: thập toàn thập mỹ.
- Tự: chữ Hán, nghĩa là: dt.
(1) Chữ, ký hiệu ghi ngôn ngữ: văn tự; tự điển; (2) Biệt danh (tự
là tên được đặt khi đủ 20 tuổi làm lễ đội mũ và công khai gia nhập xã hội người
lớn): Đức Khổng Tử có “tự” là “Trọng Ni”; (3) Họ Tự ; đt.
(4) Người con gái đã hứa hôn.
- Giá: nghĩa là: dt.
(1) Khung để treo: y giá (khung áo); (2) Gác (để đặt đồ
vật): thư giá (kệ sách); (3) Cấu trúc của vật: cốt giá;
(4) Giàn: Đậu giá (giàn đậu); đt. (5) Bắt
cóc: cường hành giá tẩu (Dùng sức mạnh bắt đi); (6) Xây dựng
cầu, bắc cầu: giá kiều; (7) Đánh lộn: đả giá; (8) Chống
lại: giá bất trú (đấu không lại; không chịu nổi); (9) Tranh
cãi: khuyến giá (can đôi bên); (10) Làm điệu, ra vẻ ta
đây: bài giá tử; (11) Loại từ (lượng từ): Cỗ, chiếc: Nhất
giá phi cơ (một chiếc máy bay).
- Thánh: Có những nghĩa sau đây: dt. (1) Người tu
dưỡng nhân cách tới cõi cùng cực; (2) Phàm cái gì mà tới tột bực đều gọi là
thánh; (3) Lời nói tôn kính nhất; (4) Người hiểu thấu mọi việc; sáng suốt, cái
gì cũng biết rõ; (5) Họ Thánh; (6) Tôn xưng ông vua; (7) Người học thức hoặc
đạo đức thâm cao; (8) Nhân vật được tôn thờ hoặc thần linh; (9) Đấng tạo ra
trời, đất, chúa tể của muôn loài, theo một số tôn giáo; tt. (10)
Cái gì thuộc về nhà vua thời phong kiến; (11) Chữ trong Kitô giáo dùng để gọi
Chúa Giêsu và những gì thuộc về Chúa (Ví dụ: tượng thánh, chén thánh, nước
thánh, toà thánh...).
- Khổ: Nghĩa là: dt. (1) Trà; (2) Đắng [một trong ngũ vị:
điềm (ngọt), toan (chua), khổ (đắng), lạt (cay), hàm (mặn)]; (3)
Khó chịu đựng: Đồng cam cộng khổ; đt.
(4) Lao lực; (5) Ghét; (6) Cảm thấy không đủ: Xuân tiêu khổ đoản nhật
cao khởi (Đêm xuân chưa thấy gì thì mặt trời đã mọc lên); tt.
(7) Gian lao; (8) Vị đắng; (9) U sầu; (10) Buồn sầu; (11) Làm cho người ta
buồn; pt. (12) Cố gắng: Mai đầu khổ đọc (cắm đầu
cố gắng học).
- Ác: nghĩa là: dt. (1) Việc xấu: Vô ác bất
tác (không việc xấu nào mà không làm); (2) Người chuyên làm việc
xấu: Thừa thiên tru ác (thừa lệnh trời giết người ác); (3)
Bệnh tật; (4) Vấy bẩn; (5) Cứt (phân); (6) Tà khí; (7) Kém hèn; tt.
(8) Hung dữ; (9) Không lương thiện; (10) Xấu xa; (11) thô thiển; pt.
(12) Rất.
Thứ hai, chúng ta hiểu các từ ghép
- Thập tự
giá
Thập là
mười; tự là chữ; giá: là đồ dùng để treo cái gì lên. Như vậy, thập tự giá là
cái giá có hình chữ thập. Chữ “thập” là chữ thập của chữ Hán, gồm hai nét ngang
và dọc: 十, chỉ số 10. Số mười
thường viết là 10. Đây là điểm quan trọng
cho thấy muốn hiểu tiếng Việt không thể không biết chữ Hán. Đối với những ai
không muốn dùng chữ Hán, có lẽ phải nói là “giá dấu cộng” (+) chứ không thể
nói “thập tự giá”.
Thập tự giá là
một dụng cụ hành hình tàn nhẫn thời xưa, thịnh hành nhất tại Persia, Damascus,
Giuđa, Israel, Carthage, Roma. Thông thường dùng để xử tử những người phản nghịch,
dị giáo, nô lệ và những người không có quyền công dân của đế quốc Roma.
Thập tự giá tiếng Anh là cross, bắt nguồn từ chữ Latinh crux. Trong Tân Ước dùng
chữ Hylạp là stauros, chữ này có 2 nghĩa: khúc cây bình thường và cây thập tự
giá đóng đinh Chúa Giêsu. Một số giáo phái Tin Lành, như “chứng nhân Yehowa”,
thì chỉ dịch là khúc cây và họ từ chối nhìn nhận thập tự giá của Chúa Giêsu.
Trong tiếng Anh cổ xưa cũng dùng chữ rood (thập tự giá) hay rod (cây). Sách
bách khoa Berry
kể ra đến 385 loại thập tự giá.
Trong văn học phương Tây, coi thập tự giá như tượng trưng cho sự đau
khổ, nhưng đối với Kitô hữu, đó là thể hiện ơn cứu rỗi của Chúa Kitô.
- Thập
giá
Thập là mười; giá là khuôn treo. Thập giá: là mười cái khuôn
treo hay mười chiếc, không có nghĩa là cái giá hình chữ
thập. Thập tự giá nói tắt thành “thập giá” thì không đúng cho
lắm, cũng như chúng ta không thể rút ngắn thuật từ “chữ thập đỏ” thành “thập
đỏ”, hay “hồng thập tự” thành “hồng thập”. Thuật từ “thập giá” thay cho thuật
từ “thập tự giá” đã có từ lâu và sử dụng quá phổ biển, nên đã trở thành thuật
ngữ chuyên biệt của Kitô giáo, đạo Cao Đài thì chỉ dùng thuật từ “thập tự giá”.
Đối với Kitô hữu, ai ai cũng chấp nhận “thập giá” đồng nghĩa với “thập tự giá”,
cho nên khi ban đầu dùng sai rồi, nay kể như là đúng, mà cũng không ai thắc
mắc, được kể như một thuật từ chuyên dùng. Đây là một trong những trường hợp
ngoại lệ. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các thuật từ dùng sai rồi, đã
phổ biển, thì đương nhiên trở thành thuật từ đúng, đổi trắng thay đen được.
Cũng vậy, thuật từ “tạo vật” nghĩa là Đấng “Tạo Hoá”, không thể vì không hiểu
mà trở thành “thụ tạo” được. Về phương diện nghiên cứu, không nên chỉ theo cảm
tính, mà phải theo lý trí.
- Thánh
giá
“Thánh”
nghĩa là thuộc về Chúa, dâng hiến cho Chúa; giá: đồ dùng hay khuôn để treo lên.
Thánh giá nghĩa là khuôn được thánh hiến. Thuật từ Thánh giá không nói đến
“giá” có hình dáng gì, mà chỉ nói đến cái giá được thánh hiến mà thôi.
Chúng ta biết Chúa Kitô đã bị đóng đinh vào cây giá (Lc 24,39; Ga 20,
25). Nhưng không biết cây giá đó có hình chữ T hay có phần trồi lên trên thanh
ngang như hình chữ “thập” (十), truyền thống Giáo Hội
thì thường là hình chữ thập, tuy nhiên
cũng có lưu truyền loại hình chữ T (gọi là crux commissa hay là thánh giá của
Thánh Antôn).
Đây cũng là một trường hợp thuật từ thánh giá được sử
dụng quá phổ biến mà trở thành một thuật từ riêng biệt của Kitô giáo. Nếu chúng ta muốn dùng thuật từ thánh giá để chỉ cái
giá có hình chữ thập theo truyền thống Công giáo, thì thuật từ thập tự
thánh giá mới đúng hơn. Bằng không thì thuật từ thánh giá cũng rất
hay, vì không cần tranh luận cái giá đóng đinh Chúa có hình dáng gì.
- Khổ giá
Nghĩa là cái giá đau khổ, gây đau khổ cho Chúa Giêsu. Chính vì Chúa
Giêsu chịu đóng đinh trên cái giá đó, nên trở thành khổ giá. Chúa Giêsu đã đem
lại cho đau khổ và sự chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi
đát của con người. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một
mùa màng lớn lao tức là ơn cứu rỗi muôn dân. Để cho rõ nghĩa hơn, nên nói “thâp tự khổ giá”, nhưng chúng
ta cũng quen dùng khổ giá để chỉ thập tự khổ giá.
-Thập ác
Thập là
mười, ác là việc xấu, thập ác là mười việc xấu hay mười tội ác.
Cuối cùng, chúng ta để ý đến sự khác biệt của
thập giá và thánh giá
- Thập giá
Trước khi
Chúa Giêsu chịu khổ hình trên cây thập tự thì cây thập tự chỉ được gọi là cây
THẬP TỰ GIÁ, là một cái giá hành hình có kiểu dáng chữ thập, là một cực hình
của thế giới phương Tây. Biểu tượng của
cây thập tự giá đối với những người không có niềm tin vào Đức
Giêsu Kitô là một biểu tượng của sự chết, là sự ô nhục, điên rồ và ngu xuẩn (1
Cor. 1:23).
Thập tự giá cũng là biểu tượng của việc
hy sinh hãm mình của Kitô hữu: “Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá
hằng ngày mà theo !” (Lc. 9:23).
- Thánh
giá
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết, lên trời vinh hiển thì cây
THẬP TỰ GIÁ trở thành một báu vật của nhân loại và được gọi là THÁNH GIÁ bởi vì
cây thập giá ấy đã được diễm phúc làm nơi cho Thánh Tử Giêsu
yên nghỉ. Đối với những người có niềm tin vào Đức Giêsu Kitô thì cây thập
giá biến thành cây THÁNH GIÁ và là biểu tượng của niềm tin. Khi dâng
thánh lễ, trên bàn thờ phải có cây thánh giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét