40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ
Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu?
Trong Giáo Hội Công Giáo, với phong trào canh
tân phụng vụ khởi phát ít lâu trước Công Đồng Vaticanô II (1962-1965), được
thảo luận rộng rãi trong Công Đồng, và dần dần được áp dụng với những thay đổi
mà ta đã thấy khá quen thuộc như hiện nay, người ta càng ngày càng ý thức sâu
sắc hơn về ý nghĩa đích thật của thánh lễ như là hành vi cảm tạ, ngợi khen và
hân hoan. Thật vậy, thánh lễ là hiến tế tạ ơn. Cách gọi này đã xuất hiện từ lâu
và gợi lên lịch sử của thánh lễ. Thánh lễ bắt nguồn từ một nghi thức của
Do-thái, nghi thức vọng lễ Vượt Qua, trong đó mỗi gia đình người Do-thái dâng
lời cảm tạ Thiên Chúa đã thương giải phóng dân tộc của họ thoát khỏi ách nô lệ
của Ai-cập, cảm tạ Người vì những cuộc giải cứu khác về mặt thiêng liêng mà
cuộc giải phóng đầu tiên này là dấu chỉ. Nghi thức Vượt Qua cũng loan báo Đấng
Cứu Tinh sẽ đến, là Đấng Thiên sai sẽ chiến thắng sự chết và tội lỗi, và sẽ đưa
Lịch Sử thánh đến sự hoàn tất.
Diễn tiến của nghi thức này cũng chính là diễn
tiến mà chúng ta gặp trong thánh lễ hôm nay : nhắc lại những kỳ công mà Thiên
Chúa đã thực hiện cho dân Người, tiếng hát và lời tạ ơn, chúc tụng và chia sẻ
bánh, rượu.
Bạn đừng ngạc nhiên về những điểm giống nhau của
thánh lễ với nghi thức Vượt Qua của người Do-thái : bởi trong chính một buổi cử
hành lễ Vượt Qua, Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể. Thay vì chỉ chúc tụng và
cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho bánh, rượu và mọi điều hạnh phúc, Chúa Giêsu
"cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và nói : "Này là Mình Thầy, chịu
phó nộp vì các con : các con hãy làm việc này để tưởng nhớ đến Thầy". Cũng
vậy sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói : "Chén này là Giao Ước mới
trong máu Thầy ; mỗi lần các con uống, các con hãy làm việc này để tưởng nhớ
đến Thầy" (1 Cor 11, 23-25).
Như vậy, chúng ta thấy rõ bữa Tiệc Ly bắt nguồn
từø một nghi thức tạ ơn của người Do-thái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải
phóng của dân riêng Thiên Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của nghi thức này,
Chúa Kitô lại làm phong phú thêm bằng một ý nghĩa mới mang tầm vóc hoàn vũ.
Chính Người, là Đấng Cứu Tinh mà mọi người mong đợi, đang thực hiện cuộc giải
phóng dân mới của Chúa, tức là Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và sự phục
sinh của Người. Từ bữa Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa Cha, mỗi ngày và
mọi nơi, của lễ hy sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành thánh
lễ ra sao?
Các Tông Đồ và giáo dân tiên khởi đã cử hành
nghi thức "bẻ bánh" (danh từ các tín hữu thời ấy dùng để nói đến
thánh lễ) : "Hằng ngày, họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới Đền Thờ,
bẻ bánh ở tư gia và ăn uống đơn sơ, vui vẻ" (Công Vụ Tông Đồ 2, 46). Họ
dùng bữa, với nghi thức "bẻ bánh", nay ở nhà người này, mai tại nhà
người kia. Cộng đoàn thời ấy được xem như là một "đền thờ sống động".
Rất sớm, người ta đã thêm vào trong bữa ăn này
những bài thánh ca, kinh nguyện và những bài đọc Kinh Thánh.
Chỉ từ thế kỷ thứ IV, người ta mới nói đến
"Lễ Misa" (xem chữ này ở phần cuối : Giải thích một số từ phụng vụ).
Vào thời ấy, sau khi hoàng đế Constantinô trở lại đạo công giáo, người ta thấy
xuất hiện những cộng đoàn đông đảo Kitô hữu. Các nghi lễ phụng vụ chịu ảnh
hưởng các nghi thức và lễ hội của người Rôma. Y phục được dùng trong các buổi
lễ thời đó là nguồn gốc của tu phục, áo lễ giáo sĩ mà bạn thấy hiện nay. Dần
dần, người ta không còn ý thức về ý nghĩa của cộng đoàn và của bữa ăn mà trong
đó Chúa Kitô chính là lương thực nuôi sống nhân loại. Người ta rước lễ ít hơn.
Vài thế kỷ sau đó thì mai một thêm ý thức về bữa ăn và về tâm tình tham dự vào hy
lễ. Thánh lễ trở thành một buổi trình diễn có tính cách thánh thiêng.
Vào thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện
diện thực sự của Chúa Kitô nơi bánh thánh đưa đến việc trưng bày bánh thánh
trên bàn thờ (Chầu Thánh Thể). Việc linh mục giơ cao bánh đã được truyền phép
xuất phát từ việc các tín hữu ước mong được "nhìn" bánh thánh (khoảng
từ năm 1200). Việc nâng cao chén thánh được thêm vào sau đó.
Vào thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện
những cuộc kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Tín hữu "ngắm nhìn" Thánh
Thể nhưng ít khi rước lễ. Phải chờ đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Piô X, họ
mới ý thức lại việc rước lễ "thường xuyên" (1905) và việc cho trẻ em
rước lễ (1910).
Trong thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm
1947, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thông điệp "Mediator Dei" (Đấng
trung gian của Thiên Chúa) nhằm canh tân phụng vụ dưới mọi phương diện, trong
đó có việc mời gọi cộng đoàn đối đáp với linh mục chủ tế.
Với Công Đồng Vaticanô II, người ta tìm lại được
ý nghĩa sâu xa của thánh lễ, được tất cảù mọi người cùng cử hành dưới sự chủ
tọa của linh mục, là bữa tiệc của Thiên Chúa và là nghi thức bẻ bánh. Cách đây
không lâu, lòng tôn sùng Thánh Thể vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá
nhân, nay thì thánh lễ lại trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.
Thánh lễ gồm hai phần :
° Phụng vụ Lời Chúa.
° Phụng vụ Thánh Thể.
Hai phần này liên kết chặt chẽ với nhau làm
thành một hành vi phụng tự duy nhất. Thật vậy, thánh lễ là bàn tiệc gồm Lời
Chúa và Thánh Thể, nơi đây các tín hữu được giáo huấn và bổ dưỡng.
Các nghi thức trước phần phụng vụ Lời Chúa (gồm
bài ca nhập lễ, lời chào, nghi thức sám hối, kinh Thương xót, kinh Vinh Danh và
lời nguyện nhập lễ) đều có tính cách mở đầu, dẫn nhập và chuẩn bị.
Các nghi thức vừa kể trên nhằm giúp các tín hữu
hiệp thông với nhau, chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe Lời Chúa và cử hành thánh lễ
cho xứng đáng.
A. Phụng vụ Lời Chúa
Phần chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là các bài
đọc trích từ Kinh Thánh, với những bài thánh ca kèm theo. Còn bài giảng, lời
tuyên xưng đức tin (kinh Tin Kính) và lời nguyện giáo dân, cũng gọi là lời
nguyện tín hữu, có mục đích khai triển và kết thúc phần phụng vụ Lời Chúa.
B. Phụng vụ Thánh Thể
- Dâng lễ : chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát
nữa sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.
- Kinh Tạ Ơn : là trung tâm và là đỉnh điểm của
thánh lễ (chúng ta sẽ khai triển ở phần sau).
- Những nghi thức hiệp lễ : kinh Lạy Cha, chúc
bình an, bẻ bánh, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ.
Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức kết lễ
: chào và ban phép lành, và giải tán cộng đoàn giáo dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét